Dưới đây là nội dung tôi và một bạn đồng nghiệp nghiên cứu để góp ý kiến đối với Dự thảo “Pháp lệnh Xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân” xin được chia sẻ cùng mọi người, đặc biệt là các đồng nghiệp cùng hành nghề tranh tụng tại tòa án các cấp ở Việt Nam. Chúng tôi rất hoang nghênh những ý kiến góp ý của bạn đọc đối với những nội dung góp ý này.
GÓP Ý DỰ THẢO
“PHÁP LỆNH XỬ LÝ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN”
A. TỔNG QUAN NỘI DUNG GÓP Ý DỰ THẢO PHÁP LỆNH XỬ LÝ CÁC HÀNH VI CẢN TRỞ HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
Trong thời gian qua, các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân ngày càng gia tăng, gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực đối với việc thực thi pháp luật. Do đó, việc hoàn thiện và ban hành Pháp lệnh Xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân (Sau đây gọi là “Pháp lệnh”) là điều hết sức cần thiết. Trên tinh thần xây dựng để tạo nên một Pháp lệnh đảm bảo các tiêu chí: (i) Rõ ràng, đầy đủ về nội dung, (ii) Chuẩn xác về khái niệm, (iii) Dễ áp dụng trên thực tiễn, và (iv) Đảm bảo tính thống nhất với hệ thống văn bản pháp luật hiện hành, chúng tôi trình bày các vấn đề cần được xem xét bổ sung, sửa đổi trong dự thảo Pháp lệnh (Sau đây gọi là “Dự thảo”) với bố cục gồm hai phần như sau:
1. Góp ý về các vấn đề của Dự thảo còn có ý kiến khác nhau
Trong phần này, chúng tôi trình bày ý kiến về các nội dung của Pháp lệnh hiện đang có những quan điểm khác nhau và đưa ra sự lựa chọn chúng tôi cho là hợp lý. Cụ thể, chúng tôi sẽ trình bày quan điểm về các vấn đề được nêu tại tờ trình đính kèm Dự thảo, bao gồm:
(i) Tên Pháp lệnh;
(ii) Phạm vi điều chỉnh;
(iii) Việc xử lý đối với hành vi không chấp hành yêu cầu triệu tập của tòa án; và
(iv) Khiếu nại trong xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân.
2. Góp ý các điều khoản cụ thể của Dự thảo
Trong phần này, chúng tôi góp ý một số điều khoản cụ thể của Dự thảo. Từ đó, nêu lên những giải pháp đóng góp nhằm hoàn thiện Dự thảo.
B. NỘI DUNG CHÍNH
I. GÓP Ý VỀ CÁC VẤN ĐỀ CỦA DỰ THẢO CÒN CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU
1. Tên Pháp lệnh
Chúng tôi thống nhất quan điểm với Tòa án nhân dân tối cao trong việc chọn tên Pháp lệnh là “Pháp lệnh xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án”. Bởi lẽ, hoạt động tố tụng là hoạt động tư pháp, không phải là các hoạt động hành chính – quản lý nhà nước, chính vì thế các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án không phải là hành vi vi phạm hành chính mà là các hành vi xâm phạm đến các hoạt động tư pháp, xét xử của tòa án.
Nếu cho rằng việc xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân là xử lý hành chính, thì điều này hoàn toàn không phù hợp với quy định của Hiến pháp và pháp luật hành chính. Cụ thể, tại Luật Xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13, khoản 1, Điều 2 quy định: “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”. Như vậy, rõ ràng vấn đề xử lý hành chính chỉ được đặt ra trong lĩnh vực quản lý nhà nước[1], phạm vi điều chỉnh của vấn đề xử lý hành chính không bao gồm các vấn đề liên quan tới hoạt động tố tụng vốn thuộc lĩnh vực tư pháp.
Từ lý do trên đây, chúng tôi cho rằng, “Pháp lệnh xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án” là tên gọi phù hợp với bản chất và mục đích của Pháp lệnh này.
2. Phạm vi điều chỉnh
Hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân vốn là một lĩnh vực rất rộng từ hành chính, dân sự đến hình sự, trong các lĩnh vực khác nhau quy trình tố tụng lại có những đặc thù và các nguyên tắc riêng. Vì vậy, các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân ở các lĩnh vực này sẽ không giống nhau (Chẳng hạn trong hoạt động tố tụng dân sự và hành chính, các hành vi cản trở có thể xuất hiện từ quá trình nộp đơn khởi kiện cho đến khi có bản án có hiệu lực pháp luật nhưng trong hoạt động tố tụng hình sự sẽ có nhiều giai đoạn hơn gồm khởi tố, điều tra, truy tố, mới đến hoạt động xét xử).
Vì vậy, phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh cũng nên làm rõ các vấn đề là Pháp lệnh có điều chỉnh các hành vi cản trở hoạt động tố tụng đối với giai đoạn trước xét xử của Tòa án hay không? Nếu không, thì cần nói rõ những hành vi cản trở hoạt động tố tụng trước giai đoạn xét xử như khởi tố, điều tra, truy tố sẽ được điều chỉnh riêng bằng văn bản khác. Còn nếu pháp lệnh này điều chỉnh tất cả các giai đoạn này thì cần bổ sung quy định xử lý đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố.
3. Việc xử lý đối với hành vi không chấp hành yêu cầu triệu tập của tòa án
Chúng tôi đồng ý với quan điểm không nên quy định xử lý đối với việc đương sự không chấp hành yêu cầu triêu tập của Tòa án trong lĩnh vực tố tụng dân sự. Theo chúng tôi, Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành có quy định về hậu quả do sự vắng mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự[2]. Vì vậy, nên quy định là đối với hành vi không chấp hành triệu tập của tòa án trong hoạt động tố tụng dân sự sẽ được xử lý theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, không nên quy định trong Pháp lệnh này để tránh chồng chéo, các quy định thì mâu thuẫn lẫn nhau.
4. Khiếu nại trong xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân
Chúng tôi thống nhất quan điểm với Tòa án nhân dân tối cao về vấn đề khiếu nại trong hoạt động đặc thù của Tòa án cần có trình tự, thủ tục nhanh gọn để đảm bảo không ảnh hưởng nhiều đến việc giải quyết vụ án. Hơn nữa, như đã phân tích bên trên, hoạt động tố tụng là một hoạt động thuộc lĩnh vực tư pháp, và do đó, không nên áp dụng các quy định như xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi cản trở hoạt động tố tụng.
II. GÓP Ý CÁC ĐIỀU KHOẢN CỤ THỂ CỦA DỰ THẢO
Chúng tôi xin trình bày quan điểm góp ý đối với một số điều khoản sau trong Dự thảo.
1. Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Như phân tích bên trên, chúng tôi cho rằng nên xác định rõ phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh này liên quan đến các hoạt động tố tụng trước xét xử trong hoạt động tố tụng hình sự hay không? Rõ ràng, các hành vi cản trở các hoạt động tố tụng trước giai đoạn xét xử chắc chắn có tồn tại, và nó cũng cần được xử lý. Vì vậy, Pháp lệnh này cần nói rõ có xử lý các hành vi này hay không hay các hành vi này sẽ được điều chỉnh ở văn bản khác?
2. Điều 2. Giải thích từ ngữ
Khoản 2, Điều 2 của Dự thảo quy định như sau: “Hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân là hành vi có lỗi do cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện nhằm cản trở các hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”.
Từ câu chữ của quy định này, có thể hiểu khái niệm “Hành vi trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân” dường như bó hẹp dưới dạng “Thực hiện hành vi vi phạm pháp luật” mà không đề cập tới hình thức “Không thực hiện một hành vi theo quy định của pháp luật”. Do đó, để đảm báo tính chính xác, đầy đủ của định nghĩa này, chúng tôi đề xuất bổ sung khoản 2, Điều 2 của Dự thảo như sau:
Điều 2. Giải thích từ ngữ
2. Hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân là hành vi có lỗi do cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện hoặc không thực hiện các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật nhằm cản trở các hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
3. Điều 5. Những hình thức xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân
Khoản 4, Điều 5 Dự thảo quy định các biện pháp khắc phục hậu quả gồm: (i) Buộc cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án, (ii) Buộc sửa đổi đơn, tài liệu theo yêu cầu của Tòa án, (iii) Buộc cử đại diện tham gia theo yêu cầu của Tòa án, và (iv) Các biện pháp khắc phục hậu quả khác theo quy định của pháp luật là tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, ngoài các biện pháp khắc phục nói trên, theo chúng tôi nên bổ sung thêm biện pháp “Buộc chấm dứt hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án” vào các biện pháp khắc phục hậu quả để đảm bảo mọi vi phạm, hành vi cản trở sẽ bị chấm dứt và được khắc phục đầy đủ.
4. Điều 10. Tình tiết giảm nhẹ
Khoản 8, Điều 10 của Dự thảo quy định về tình tiết giảm nhẹ như sau: “Các tình tiết giảm nhẹ khác theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, chúng tôi lại không rõ các quy định pháp nào sẽ quy định những tình tiết giảm nhẹ để người có thẩm quyền xử lý cân nhắc khi ra quyết định xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng, cách thức xác định, áp dụng như thế nào? Với các quy định chung chung kiểu này dễ dẫn đến việc quy định này không thể áp dụng trong thực tế.
Theo chúng tôi, có thể tham khảo cách thức quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự về việc giao cho người có thẩm quyền xử lý có quyền xem xét và coi các tình tiết giảm nhẹ khác khi xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng, và các tình tiết giảm nhẹ khác này có thể được quy định trong các văn bản hướng dẫn Pháp lệnh này.
5. Điều 13. Khiếu nại tố cáo trong xử lý hành chính hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân
Tiêu đề Điều 13 không thống nhất với tinh thần chung của Pháp lệnh. Pháp lệnh khẳng định các vấn đề được điều chỉnh không phải là hành vi hành chính thông thường, vì vậy không nên sử dụng cụm từ “Xử lý hành chính” trong điều khoản này. Bên cạnh đó, việc sử dụng cụm từ “Xử lý hành chính” cũng không phản ánh được bản chất của vấn đề và mâu thuẫn với quy định của pháp luật trong lĩnh vực hành chính[3]. Do vậy, chúng tôi đề xuất sửa đổi tiêu đề Điều 13 của Dự thảo như sau:
Điều 13. Khiếu nại tố cáo trong xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân
6. Điều 16. Các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân
Trong Điều 16 của Dự thảo, chúng tôi nhận thấy cần sửa đổi, bổ sung ba vấn đề sau:
a. Sửa đổi khoản 2
Khoản 2, Điều 16 Pháp lệnh quy định hành vi không chấp hành triệu tập của Tòa án là hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân. Như chúng tôi đã phân tích, riêng trong hoạt động tố tụng dân sư, thì việc không có mặt theo yêu cầu triệu tập của tòa án đã có được xử lý theo quy định trong Bộ luật Tố tụng Dân sư, người vắng mặt đã phải chịu hậu quả do việc vắng mặt của mình nên không cần thiết phải xử lý. Do vậy, quy định này nên sửa đổi thành:
“Hành vi không chấp hành triệu tập của Tòa án, riêng việc không chấp hành triệu tập của Tòa án trong hoạt động động tố tụng dân sự sẽ tuân theo các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.”
b. Cân nhắc bổ sung đối tượng được bảo vệ bởi Pháp lệnh tại khoản 3
Khoản 3, Điều 16 Pháp lệnh quy định: “Hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, sức khỏe của những người tiến hành tố tụng và những người khác thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu của Tòa án” là hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân.
Tuy nhiên, trong thực tế việc tham gia vào hoạt động tố tụng không chỉ có những người tiến hành tố tụng, những người khác thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu của tòa án (mà theo giải thích của ban soạn thảo là người giám định, phiên dịch), còn có người bảo quyền lợi của các đương sự, người làm chứng. Như vậy, khi có hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín và sức khỏe của những người này, thì hành vi này có thể sẽ không bị xử lý vì không có quy định.
Vì thế, chúng tôi cho rằng, khoản 3, Điều 16 Pháp lệnh nên được xem xét sửa đổi như sau: “Hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, sức khỏe của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và những người khác thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu của Tòa án” hoặc quy định rõ, hành vi xúc phạm nhân phẩm, uy tín và sức khỏe của những người tham gia tố tụng sẽ bị xử lý dưới góc độ vi phạm trật tự, nội quy phiên tòa.
c. Bổ sung đối tượng được bảo vệ tại khoản 4
Khoản 4, Điều 16 quy định “hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án” là hành vi trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân.
Như vậy, hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của các đương sự hoặc người bảo vệ quyền lợi của đương sự sẽ không bị coi là hành vi cản trở hoạt động tố tụng và dĩ nhiên sẽ không bị xử lý theo quy định của Pháp lệnh. Trong khi trong hoạt động tố tụng dân sự, thì trách nhiệm chính trong việc xác minh thu thập, chứng cứ thuộc về các đương sự hoặc người bảo vệ quyền lợi của họ.
Vì vậy, để đảm bảo tính chặt chẽ cũng như mục đích của Pháp lệnh, cần bổ sung thêm đối tượng được bảo vệ là hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của các đương sự hoặc người bảo vệ quyền lợi của các đương sự. Theo đó, khoản 4, Điều 16 Pháp lệnh nên được xem xét sửa đổi như sau:
“Hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án, các đương sự và người bảo vệ quyền lợi của họ”.
7. Điều 17. Xử lý các hành vi vi phạm trật tự, nội quy phiên Tòa
Nguyên văn khoản e của Điều 17 của Dự thảo quy định: “Ghi âm, ghi hình tại phiên tòa mà không được sự cho phép bằng văn bản của Chánh án Tòa án nơi giải quyết vụ án hoặc chủ tọa phiên tòa giải quyết vụ án thực hiện việc ghi âm, ghi hình không đúng theo hướng dẫn và sắp xếp vị trí của Tòa án nơi giải quyết vụ án”
Theo chúng tôi, đối với hoạt động của cơ quan báo đài khi đưa tin về hoạt động xét xử thì cần sự cho phép bằng văn bản của Chánh án là hợp lý. Tuy nhiên, việc ghi âm hoặc ghi hình của các đương sự, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa mà xin phép Chánh án hoặc Chủ tọa phiên tòa bằng văn bản là bất hợp lý.
Ngoài ra, nội dung của điều khoản này là khó hiểu, không rõ ràng. Theo chúng tôi điểm e, khoản 1, Điều 17 Pháp lệnh nên được sửa đổi như sau:
“Ghi âm, ghi hình tại phiên tòa mà không được sự cho phép bằng văn bản của Chánh án Tòa án nơi giải quyết vụ án hoặc không được sự cho phép của chủ tọa phiên tòa giải quyết vụ án hoặc thực hiện việc ghi âm, ghi hình không đúng theo hướng dẫn và sắp xếp vị trí của Tòa án nơi giải quyết vụ án”
8. Điều 18. Xử lý các hành vi không chấp hành yêu cầu triệu tập của Tòa án
Xin vui lòng xem các phân tích, góp ý của chúng tôi tại mục 6, phần II bên trên.
9. Điều 19. Xử lý hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, sức khỏe của những người tiến hành tố tụng hoặc những người khác thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu của Tòa án
Như chúng tôi đã phân tích bên trên, theo chúng tôi cho rằng Điều 19 của Pháp lệnh nên được xem xét sửa đổi như sau:
Điều 19. Hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, sức khỏe của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và những người khác thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu của Tòa án:
1. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi dùng ngôn ngữ, hành động xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, sức khỏe của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và những người khác thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu của Tòa án.
10. Điều 20. Xử lý hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án
Như đã trình bày, phân tích tại mục 6 (c), chúng tôi cho rằng Điều 20 của Pháp lệnh nên được xem xét sửa đổi như sau:
Điều 20. Xử lý hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án, các đương sự và người bảo vệ quyền lợi của họ
11. Điều 22. Xử lý hành vi cản trở cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia tố tụng theo yêu cầu của Tòa án
Khoản 1, Điều 22 của Pháp lệnh quy định về “phạt cảnh cáo đối với hành vi đe dọa, hành hung hoặc lợi dụng sự lệ thuộc nhằm cản trở cá nhân, cơ quan, tổ chức đến phiên tòa, phiên họp theo triệu tập của Tòa án”.
Theo quy định nói trên, thì các hành vi cản trở cá nhân, cơ quan, tổ chức khác thường gặp khác trên thực tế không được quy định này nhắc đến, chẳng hạn như hành vi “dụ dỗ” nhằm cản trở cá nhân, cơ quan, tổ chức đến phiên tòa, phiên họp theo triệu tập của Tòa án. Theo chúng tôi, đây là điểm chưa chặt chẽ của quy định này. Vì vậy, khoản 1, Điều 22 của pháp lệnh nên được xem xét sửa đổi như sau:
Phạt cảnh cáo đối với hành vi đe dọa, hành hung, dụ dỗ hoặc lợi dụng sự lệ thuộc nhằm cản trở cá nhân, cơ quan, tổ chức đến phiên tòa, phiên họp theo triệu tập của Tòa án
12. Điều 26. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân
Trong Điều 26 của Dự thảo, chúng tôi nhận thấy hai điểm cần được xem xét ở các điểm sau:
a. Thiếu quy định cho phép người có thẩm quyền tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm có giá trị vượt quá giá trị mà người có thẩm quyền được tịch thu.
Điểm c khoản 1 và điểm c khoản 2 quy định người có thẩm quyền có quyền “Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm có giá trị không vượt quá mức tiền phạt được quy định ở điểm b khoản này”. Theo quy định được trình bày tại Dự thảo, mức tiền phạt mà (i) Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc; (ii) Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc phá sản và (iii) Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, Chánh án Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp tỉnh, có quyền phạt tối đa lần lượt là 1.000.000 đồng, 5.000.000 và 7.500.000 đồng.
Trên thực tế, sẽ xảy ra trường hợp các phương tiện vi phạm quy định của Pháp lệnh có giá trị vượt quá mức quy định trên, chẳng hạn như máy ghi âm, máy quay phim có giá trị từ vài triệu đến vài chục triệu, đều vượt quá mức phạt tiền nói trên. Nếu không có quyền tịch thu vì vượt quá hạn mức, thì người có thẩm quyền sẽ phải xử lý thế nào? Do đó, theo chúng tôi cần trao thêm cho người có thẩm quyền nói trên quyền tạm giữ tang vật và phương tiện vi phạm, khi giá trị của chúng cao hơn mức giá trị mà người có thẩm quyền đó có quyền tịch thu.
b. Có sự chồng chéo trong nội dung quy định việc áp dụng các hình thức xử lý bổ sung và biện pháp khắc phục.
Điểm d khoản 1, điểm d khoản 2 và điểm d khoản 3 của Điều 26 quy định người có thẩm quyền được quyền “Áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục quy định tại khoản 3, khoản 4, Điều 5 của Pháp lệnh này”. Khoản 3, Điều 5 của Pháp lệnh quy định hình thức xử lý bổ sung bao gồm: (i) Buộc rời khỏi phòng xử án, và (ii) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân.
Như vậy, theo quy định tại điểm d khoản 1, điểm d khoản 2 và điểm d khoản 3 của Điều 26 thì người có thẩm quyền được tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm bất kể giá trị tang vật, phương tiện vi phạm. Điều này mâu thuẫn với quy định tại điểm c khoản 1, điểm c khoản 2, Điều 26 như chúng tôi đã phân tích bên trên. Vì vậy, chúng tôi kiến nghị Ban soạn thảo nên làm rõ và quy định các điểm này để tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau.
13. Điều 28. Buộc chấm dứt hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân
Chúng tôi cho rằng cần xem xét lại việc xếp Điều 28 vào chương IV. Thủ tục xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân. Bởi lẽ, về mặt câu chữ, cụm từ “Thủ tục xử lý” được hiểu theo cách thông thường (và hợp lý) là cách thức, trình tự được đặt ra để giải quyết một vấn đề. Trong khi đó, “Buộc chấm dứt hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân” lại mang ý nghĩa là một hình thức xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án hoặc là một biện pháp khắc phục hoặc một biện pháp ngăn chặn.
Do đó, việc xếp quy định về “Buộc chấm dứt hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân” vào chương quy định về thủ tục xử lý là chưa hợp lý. Vì vậy, chúng tôi đề xuất xem xét xếp quy định về “Buộc chấm dứt hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân” vào phần các biện pháp khắc phục như đã được trình bày bên trên và các biện pháp ngăn chặn như được trình bày bên dưới đây.
14. Điều 37. Ra quyết định xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân
Khoản 4, Điều 37 của Dự thảo quy định 09 nội dung trong Quyết định xử lý, trong đó, không đề cập tới tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ. Theo quan điểm của chúng tôi, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ là những yếu tố quan trọng có khả năng thay đổi mức độ của biện pháp xử lý. Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi hợp pháp của đối tượng bị xử lý. Do đó, chúng tôi đề xuất bổ sung nội dung bổ sung nội dung này vào điểm e, khoản 4, Điều 37 Pháp lệnh như sau:
Hình thức, mức xử lý; hình thức xử lý bổ sung, biện pháp khắc phục, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ (nếu có)
15. Điều 40. Các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân
Khoản 3, Điều 40 quy định người có thẩm quyền xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng cuả Tòa án nhân dân có quyền “Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân”. Theo chúng tôi hiểu, các biện pháp để ngăn chặn là để buộc chấm dứt các hành vi cản trở hoạt động tố tụng hoặc để đảm bảo việc xử lý các hành vi này, chứ không phải là quyết định xử lý cuối cùng. Chính vì thế, quy định “tịch thu” tang vật, phương tiện là không hợp lý, vì chưa biết rõ hành vi này có bị xử lý hay không, có thuộc thẩm quyền của người đã ra quyết định tịch thu hay không? Chính vì thế, nên sửa lại quy định này như sau:
Tạm giữ tang vật, phương tiện được sử dụng để cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân
16. Điều 50. Quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại
Khoản 1, Điều 50 của Dự thảo quy định về quyền của người khiếu nại, nhưng lại không đề cập tới quyền nhờ luật sư tư vấn về pháp luật, trợ giúp pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trong khi, các thủ tục tố tụng phức tạp, bản thân đương sự có thể không am hiểu và không thể hiểu rõ hết các thủ tục, quyền và nghĩa vụ của mình khi khiếu nại. Do vậy, nên có quy định về việc người khiếu nại nên có quyền được nhận sự trợ giúp pháp lý từ luật sư. Vì vậy, chúng tôi đề xuất khoản 1, Điều 50 của Pháp lệnh nên được xem xét bổ sung như sau:
1. Người khiếu nại có các quyền sau đây:
e) Nhờ luật sư tư vấn về pháp luật, trợ giúp pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
———————–
Trên đây là một số góp ý của chúng tôi về bản Dự thảo Pháp lệnh xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân. Chúng tôi mong nhận được sự quan tâm xem xét của Ban soạn thảo để quá trình hoàn thiện Dự thảo được diễn ra hiệu quả và xây dựng một Pháp lệnh mang tính thực tiễn cao.
Trân trọng,
[1] Theo quy định tại Điều 109 Hiến pháp, thì hoạt động quản lý nhà nước thuộc thẩm quyền của Chính phủ – cơ quan hành pháp tối cao của nước ta.
[2] Điều 199 và Điều 202 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004, được sửa đổi, bổ sung năm 2011.
[3] Khoản 1 điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 do Quốc hội ban hành ngày 20 tháng 06 năm 2012 quy định: “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”. Như đã phân tích, các hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án nhân dân không phải là hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước nên không thể áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính.
Phản hồi